Đông y điều trị vô sinh

Trong y học cổ truyền, vô sinh cũng được chia làm hai loại: Vô sinh nam và vô sinh nữ. Vô sinh nam thuộc phạm vi các chứng bệnh như: Bất dục, vô tử, tuyệt dục, nam tử nán tự, vô tinh, thiểu tinh, lãnh tinh… Vô sinh nữ thuộc phạm vi các chứng bệnh như: Bất dựng, toàn vô tử, đoạn tự, chủng tử, tử tự, tự dục, cầu tự…

Nguyên nhân nào dẫn đến vô sinh ?

Với vô sinh nam: Có 7 nguyên nhân chính bao gồm bẩm thụ tiên thiên bất túc, tinh khí suy nhược (yếu tố di truyền, dị tật bẩm sinh); mệnh môn hỏa suy, tinh khí hư lãnh (rối loạn nội tiết tố nam, tinh dịch lỏng loãng và lạnh, chất lượng và số lượng tinh trùng suy giảm); đàm trọc ứ huyết, trở tắc tinh đạo (các bệnh gây rối loạn chuyển hóa và nội tiết, những yếu tố gây hẹp tắc đường dẫn tinh); tửu thực bất điều, thấp nhiệt hạ chú (ăn uống không điều độ, nghiện rượu, viêm nhiễm đường tiết niệu sinh dục do nguyên nhân nội sinh); tình chí bất toại, can kinh uất trệ (yếu tố gây sang chấn tâm lý, tinh thần); cửu bệnh lao quyện, khí huyết khuy hư (mắc các bệnh mạn tính lâu ngày gây suy nhược cơ thể, suy giảm tính dục, suy giảm chất lượng và số lượng tinh trùng); di trọc nội tích, dâm độc thâm nhiễm (viêm nhiễm bộ phận sinh dục, đặc biệt là phần dưới, do nguyên nhân cảm nhiễm bên ngoài).

Đông y điều trị vô sinhĐông y điều trị vô sinh gồm tổng thể nhiều biện pháp như dùng thuốc, bấm huyệt…

Với vô sinh nữ: Có 6 nguyên nhân chính gồm thận hư (thận dương hư và thận âm hư, “Thận” ở đây với ý nghĩa là một cơ quan chủ về thủy dịch, chủ về đại tiểu tiện, nội tiết và sinh dục theo quan điểm của y học cổ truyền. Nguyên nhân “thận hư” bao gồm các yếu tố gây rối loạn nội tiết và sinh dục dẫn đến vô sinh); huyết hư (huyết là cơ sở vật chất của kinh nguyệt, huyết hư là những yếu tố gây nên tình trạng thiếu máu và rối loạn kinh nguyệt như mắc các bệnh mạn tính, mất máu kéo dài…); can uất (là những yếu tố gây sang chấn tâm lý, căng thẳng tinh thần kéo dài); đàm thấp (là những nguyên nhân gây nên bệnh lý rối loạn nội tiết, rối loạn chuyển hóa, gây trở tắc vòi trứng, ứ trệ trong tử cung…); thấp nhiệt (là những yếu tố gây viêm nhiễm bộ phận sinh dục); huyết ứ (là những nguyên nhân gây ứ trệ huyết dịch, làm cản trở công năng của bào cung, khiến cho quá trình thụ thai bị trở ngại).

Đông y điều trị vô sinh như thế nào ?

Để trị liệu vô sinh, cũng như đối với các chứng bệnh khác, nguyên tắc chung của đông y là phải đảm bảo tính toàn diện, nghĩa là ngoài việc dùng thuốc, cần chú ý đồng thời sử dụng nhiều biện pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh, tâm lý liệu pháp, dược thiện (món ăn - bài thuốc), điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt cho phù hợp… Đương nhiên, việc dùng thuốc vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng và thường được tiến hành theo hai hướng: Biện chứng thi trị và biện bệnh thi trị.

Biện chứng thi trị hay còn gọi là biện chứng luận trị, là phương thức trị liệu dựa trên cơ sở chứng trạng và thể bệnh cụ thể mà tiến hành lựa chọn các vị thuốc và bài thuốc cho phù hợp. Biện bệnh thi trị là phương thức dựa trên cơ chế bệnh sinh chủ yếu của bệnh mà xây dựng một bài thuốc hoặc một phác đồ điều trị chung cho nhiều thể bệnh. Phương pháp trị liệu vô sinh nam và vô sinh nữ không giống nhau.

Đông y điều trị vô sinhCác vị trong bài thuốc Long đởm tả can thang điều trị vô sinh nam.

Với vô sinh nam

Thường tiến hành biện chứng luận trị theo tám thể bệnh:

Với thể Thận âm khuy hư phải tư âm bổ thận, điền tinh chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Ngũ tử diễn tông hoàn phối hợp với Tả quy ẩm gia giảm.

Với thể Thận dương bất túc phải ích thận ôn dương, bổ tinh, thường chọn dùng bài thuốc Ngũ tử diễn tông hoàn phối hợp với Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm.

Với thể Khí huyết khuy hư phải ích khí kiện tỳ, dưỡng huyết sinh tinh, thường dùng bài thuốc Bát trân sinh tinh thang gia giảm.

Với thể Tỳ thận lưỡng hư phải ôn bổ tỳ thận, ích khí sinh tinh, thường chọn dùng bài thuốc Thập tử thang phối hợp với Lục quân tử thang gia giảm.

Với thể Thấp nhiệt hạ chú phải thanh nhiệt lợi thấp, tiêu thũng giải độc, thường chọn dùng bài thuốc Long đởm tả can thang phối hợp với Tỳ giải thẩm thấp thang gia giảm.

Đối với bệnh lý vô sinh, đông y cũng có một bề dày kinh nghiệm chẩn trị dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận chặt chẽ và vững chắc. Nhưng ở nước ta cho đến nay, những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc về vấn đề này còn rất hiếm hoi.

Với thể Đàm trọc ngưng trệ phải hóa đàm lý khí, hóa kết thông lạc, thường dùng bài thuốc Thương phụ đạo đàm thang gia giảm.

Với thể Huyết ứ trở trệ phải hoạt huyết hóa ứ thông tinh, thường dùng bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang gia giảm.

Với thể Hàn trệ can mạch phải noãn can tán hàn, ôn kinh hành khí, thường dùng bài thuốc Noãn can tiễn gia giảm.

Với vô sinh nữ

Thường tiến hành biện chứng luận trị theo mười thể bệnh:

Với thể Thận dương hư phải ôn thận noãn cung, ích xung chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Hữu quy hoàn phối hợp với Nhị tiên thang gia giảm.

Với thể Thận âm hư phải tư thận ích tinh, dưỡng xung chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Tả quy hoàn phối hợp với Nhị chí hoàn gia giảm.

Với thể Khí huyết hư nhược phải ích khí dưỡng huyết, điều kinh chủng tử, thường dùng bài thuốc Lưu lộc trân gia giảm.

Với thể Can khí uất kết phải sơ can giải uất, điều kinh chủng tử, thường dùng bài thuốc Khai uất chủng ngọc thang gia giảm.

Với thể Khí trệ huyết ứ phải lý khí hoạt huyết, hóa ứ chủng tử, thường dùng bài thuốc Cách hạ trục ứ thang gia giảm.

Với thể Hàn ngưng huyết ứ phải ôn thông tán hàn, hóa ứ chủng tử, thường dùng bài thuốc Thiếu phúc trục ứ thang gia giảm.

Với thể Nhiệt ứ hỗ kết phải hoạt huyết hóa ứ, thanh xung chủng tử, thường chọn bài thuốc Giải độc hoạt huyết thang gia giảm.

Với thể Khí hư huyết ứ phải bổ ích khí huyết hóa ứ chủng tử, thường dùng bài thuốc Đương quy bổ huyết thang gia giảm.

Với thể Thấp nhiệt uẩn kết phải hóa thấp giải độc, thanh xung chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Ngũ vị tiêu độc ẩm gia giảm.

Với thể Đàm thấp phải kiện tỳ hóa thấp, hóa đàm chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Thương phụ đạo đàm thang gia giảm.

Ngoài phương thức biện chứng luận trị, trong trị liệu vô sinh, các thầy thuốc đông y còn sử dụng phương thức biện bệnh thi trị bằng các hình thức như: Dùng phương thuốc dân gian, dùng tân phương (là các phương thuốc tự xây dựng, để phân biệt với cổ phương) hoặc các đông dược thành phẩm.

Tóm lại, đối với bệnh lý vô sinh, đông y cũng có một bề dày kinh nghiệm chẩn trị dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận chặt chẽ và vững chắc. Đương nhiên, do hạn chế của lịch sử, ở một phương diện nào đó, hiệu quả thu được chưa cao hoặc không có hiệu quả, nhưng không phải vì thế mà phủ nhận hoàn toàn. Thực tế hiện nay, ở nhiều nước, người ta đã và đang không ngừng nghiên cứu sử dụng biện pháp của đông y, trong đó có đông dược, để trị liệu căn bệnh còn nan giải này. Rất tiếc là, ở nước ta cho đến nay, những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc của đông y về vấn đề này còn rất hiếm hoi.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Tự làm giảm cơn tăng huyết áp

Theo y học cổ truyền, triệu chứng tăng huyết áp là một tình trạng khí nghịch do tình chí hoặc do yếu tố lục dâm (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa) gây ra. Giải quyết triệu chứng này đồng nghĩa với việc giáng khí, làm cho khí đang lưu chuyển ngược lên đầu sẽ hướng xuống phía dưới và tỏa ra lớp da ngoài của cơ thể.

Tuy nhiên có một điều mà ít người quan tâm là với một số động tác đơn giản của y học dân gian, người ta có thể làm giảm cơn tăng huyết áp đang phát triển để khống chế phần lớn những tác hại của nó hoặc ít ra có thể ngăn chặn những diễn biến xấu hơn trong khi bệnh nhân chờ được chuyển đến bệnh viện hoặc cơ sở chuyên môn cần thiết.

Những động tác cụ thể:

Vuốt ấm hai vành tai

Dùng ngón cái và ngón trỏ của mỗi bàn tay vuốt dọc vành tai cùng bên, từ trên xuống dưới khoảng 9, 10 lần. Vành tai và cột sống có những điểm phản xạ tương ứng với nhau, do đó vuốt ấm vành tai cũng là tác động vào cột sống lưng, vừa có tác dụng điều hòa thần kinh giao cảm, vừa kích thích sự lưu thông khí huyết ở phần vệ khí do kinh bàng quang phân bố dọc hai bên sống lưng (nếu có người thứ hai bên cạnh có thể nhờ người này trực tiếp ngồi sau lưng dùng bàn bay tay phải vuốt dọc sống lưng từ trên gáy xuống đến tận thắt lưng để gia tăng thêm tác dụng).

Vuốt dọc hai bên mũi

Mỗi bàn tay vuốt một bên mũi, vuốt đều hai bên cùng một lúc. Dùng ngón tay trỏ vuốt từ ấn đường (điểm giữa hai đầu chân mày) xuống dọc theo hai bên mũi qua khóe miệng đến tận chót cằm. Vuốt chậm, nhẹ và làm không dưới 15 lần.

Kích thích huyệt ấn đường có tác dụng làm phóng thích chất endorphine nội sinh có thể làm cho an thần, hạ huyết áp và giáng khí. Vuốt dọc theo hai bên mũi xuống cằm là tác động vào hai kinh dương minh. Học thuyết kinh lạc của y học cổ truyền cho rằng kinh dương minh là kinh dương, tập trung nhiều huyết khí, huyết; có chức năng quan trọng nhất trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các yếu tố gây bệnh từ bên ngoài. Động tác này làm gia tăng sự lưu thông khí huyết ở phần vệ khí, gây ấm người và làm nhẹ áp lực lên thành mạch.

Vuốt dọc hai chân mày

Dùng hai ngón tay trỏ và giữa vuốt từ ấn đường đi dài theo xương chân mày ra thái dương đến tận mí tóc ở phía ngoài đuôi mắt. Vuốt mỗi bên khoảng 10 lần. Vùng chân mày và hai cánh tay có những điểm phản xạ tương ứng nhau, do đó động tác này ngoài việc giải tỏa sự sung huyết tại những huyệt vị thường bị tắc nghẽn ở vùng trán còn làm cho khí huyết lưu thông ra hai cánh tay và bàn tay để giúp nhẹ áp lực ở đầu.

Ngồi hoặc nằm thư giãn

Ngồi thoải mái, lưng tựa ghế hoặc nằm xuống thư giãn hít thở điều hoà, tư tưởng tập trung vào mười đầu ngón chân. Động tác này phải kéo dài hơn 10 phút. Mỗi khi cảm nhận được những dấu hiệu huyết áp tăng cao như căng, nặng ở vùng thái dương, đau đầu, mờ mắt, mắt đỏ..., người bệnh nên ngồi xuống, tập trung tinh thần thực hành lần lượt 4 động tác trên. Bình tĩnh và tự tin là yếu tố cần thiết trong quá trình thực hiện các động tác. Sau khoảng 15 phút thực hành, bệnh nhân có thể cảm thấy bớt đi cảm giác khó chịu ở vùng đầu, nhịp đập của tim sẽ chậm lại, tay chân sẽ ấm lên. Đó là lúc huyết áp đã hạ bớt.


Lương y Võ Hạnh Thu

Khởi động ngày mới đúng cách

Điều này là rất bất lợi cho sức khỏe, đặc biệt đối với người có tuổi và cao tuổi; người bị mắc các chứng bệnh như huyết áp thấp, tăng huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não, rối loạn tiền đình, thoái hóa cột sống... Theo Đông y, khi mặt trời mọc là lúc âm khí suy và dương khí thịnh, trong cơ thể cũng vậy: vệ khí đã vận hành hết 25 vòng ở âm và bắt đầu vận hành tiếp 25 vòng ở dương, nhân thể chuyển từ tĩnh sang động. Ngủ thuộc âm, thức thuộc dương, đây là lúc chuyển đổi trạng thái mang tính chất bản lề rất cần thiết sự từ tốn và uyển chuyển với những thao tác đơn giản sau đây:

Nằm nguyên trên giường, toàn thân thả lỏng, từ từ thót bụng thở ra cho tận hết rồi từ từ phình bụng hít vào, rồi lại thót bụng thở ra, cứ luân phiên như vậy chừng 10 lần nhằm mục đích đào thải thán khí và tận thu dưỡng khí.

Hai bàn tay hơi khum, các ngón tay hơi xòe ra, từ chân tóc trán đẩy từ từ sao cho các đầu ngón tay sát với da đầu từ trước trán ra tới sau gáy 10 lần để làm cho đầu óc tỉnh táo, kích thích sự hưng phấn của não bộ.

Hai bàn tay đặt chồng lên nhau xoa bụng theo chiều kim đồng hồ với một lực vừa phải chừng 50 vòng sao cho toàn bụng nóng lên là được nhằm giúp khởi động dạ dày ruột và bàng quang, sẵn sàng cho việc đào thải tận hết nước tiểu và các chất cặn bã ra bên ngoài.

Dùng tay trái xát rồi bóp tay phải từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên và ngược lại trong 1 phút sao cho hai tay ấm lên là được.

Hai chân duỗi thẳng, đồng thời xoay hai bàn chân theo chiều kim đồng hồ 3 vòng rồi ngược lại 3 vòng. Gấp và duỗi hết cỡ khớp gối mỗi bên 5 lần. Gấp và duỗi khớp hết cỡ mỗi bên 5 lần. Gấp khớp gối sao cho cẳng chân và đùi vuông góc rồi từ từ xoay tròn khớp háng xuôi và ngược mỗi chiều 5 vòng, làm lần lượt từng bên một. Cuối cùng hai tay bó gối, hai chân khép vào nhau rồi xoay tròn xuôi ngược mỗi chiều 5 lần.

Toàn thân duỗi thẳng, co chân phải vắt chéo sang chân trái rồi từ từ vặn người sao nửa trên cơ thể hướng sang bên phải trong khi cố đưa chân phải sang trái hết cỡ nhằm mục đích khởi động cột sống thắt lưng; và đổi chân làm ngược lại.

Luồn bàn tay phải dưới gáy bóp khối cơ cổ bên trái trong nửa phút rồi làm ngược lại dùng bàn tay trái bóp khối cơ bên phải trong nửa phút. Tiếp đó, dùng hai ngón tay cái đặt vào hai hõm dưới đáy hộp sọ cạnh khối cơ sau gáy (huyệt Phong trì) trong khi bốn ngón còn lại xòe ra ôm chặt lấy đầu, tiến hành day ấn trong 1 phút với một lực tương đối mạnh có thể chịu được nhằm mục đích khởi động cột sống cổ và làm tăng lưu lượng tuần hoàn não.

Cuối cùng, lại thả lỏng toàn thân rồi hít thở sâu như động tác đầu tiên. Sau đó hãy ngồi dậy và hoạt động bình thường.

Quy trình trên có thể gọi là bước khởi động sơ bộ ban đầu cho hoạt động của toàn bộ cơ thể sau một đêm ngủ trong trạng thái tĩnh lặng. Điều này hoàn toàn dễ hiểu và cần thiết vì trước khi tiến hành bất cứ một hoạt động thể lực nào chúng ta đều phải thực hành động tác khởi động nhằm giúp cho cơ thể dần dần thích nghi hoàn toàn với sự thay đổi trạng thái.

BS. Thanh Trà

Món ăn thuốc ngừa hen phế quản

Sang thu khí trời chuyển mùa nên thời tiết thường se lạnh khô hanh. Nhưng cũng chính thế mà các bệnh về phổi hay phát sinh hoặc tái phát. Thông thường hay gặp như viêm long đường hô hấp trên biểu hiện khô rát họng... Bởi vậy sách Nội kinh có viết: “Mùa thu dưỡng phế khí”. Từ đấy trong y học phương Đông người ta đã biết chế biến những món ăn thuốc có tác dụng phòng ngừa hoặc làm giảm nhẹ sự phát sinh và phát triển của chứng hen phế quản. Đó là những món ăn thuốc phòng chống hen phế quản trong mùa thu. Dưới đây xin giới thiệu một số món ăn thuốc để mọi người cùng tham khảo và có thể lựa chọn sử dụng khi cần thiết.

- Canh phổi lợn, nhị tử: kha tử 6g, ngũ vị tử 20 hạt, phổi lợn hay phổi bò 1 cái. Rửa sạch phổi, cho cùng các vị thuốc vào nồi nấu thành canh. Khi phổi nhừ nêm gia vị vừa miệng. Ăn cái uống nước canh, mỗi ngày 1 lần, cần ăn liền 7-10 ngày.

- Canh yến sào, bạch chỉ: Bạch chỉ 12g, yến sào 12g, đường phèn một ít. Cho thuốc vào nồi đất, nổi lửa, để nhỏ liu riu hầm kỹ đến nhừ. Bỏ bã, cho đường phèn hòa tan, chia đôi nước uống vào buổi sáng và buổi tối trong ngày. Cần uống từ 10-15 ngày liền.

- Tắc kè hầm đường phèn: Tắc kè vài con, đường phèn lượng đủ dùng. Tắc kè sấy khô tán bột. Cất đi dùng dần. Mỗi lần lấy 5-6g bột tắc kè cho đường phèn vào nấu kỹ. Uống ngày 1 lần, uống liền 1 tháng (30 ngày).

Chim sẻ.

- Trứng vịt, bách hợp, xuyên bối: Lá dâu 30g, xuyên bối 5g, bách hợp 20g, trứng vịt 2 quả. Lá dâu sắc lấy 500ml nước, xuyên bối tán bột đổ vào cùng bách hợp, rồi cho vào nồi đun cách thủy đến khi thấy bách hợp chín, đập trứng vịt cho vào, nêm đủ gia vị đun sôi nhào là được. Uống như vậy khoảng 1 tuần (7 ngày) là được.

- Phổi lợn hầm lê tuyết, xuyên bối: Phổi lợn 250g, xuyên bối mẫu 10g, lê tuyết 2 quả, đường phèn một ít. Lê tuyết cắt thành miếng, phổi lợn cũng thái miếng, tất cả cho cùng vào xuyên bối mẫu vào trong nồi đất, thả chút đường phèn vào, đổ nước hầm đến khi nhừ là được. Cần ăn thường xuyên một thời gian.

- Nhau thai hầm trùng thảo: Nhau thai tươi 1 chiếc, rửa sạch thái miếng, đông trùng hạ thảo 10-15g. Tất cả cho vào nồi đất hầm chín nêm gia vị vừa miệng. Mỗi tuần ăn 1 lần. Cần ăn liền 5-10 lần.

- Củ cải nấu mật ong: Củ cải 100g, rửa sạch cắt khúc, mật ong 15-20ml. Cho vào nấu chung chín đem ra ăn hết 1 lần. Cần ăn liền 10-15 ngày liền.

- Vịt già hầm trùng thảo. Vịt già 1 con làm sạch bỏ ruột, ngũ tạng, chặt miếng, đông trùng hạ thảo 10-15g. Cho thịt vịt già vào nồi hầm nhừ, cho đông trùng hạ thảo vào nấu tiếp 10 phút, nêm gia vị vừa đủ, đem ra ăn. Ăn tuần 1-2 lần. Cần ăn 5-10 lần liền.

- Chim sẻ hấp đường phèn: Chim sẻ 3-5 con, làm sạch lông moi bỏ ruột, bỏ vào bát tô to, thả đường phèn 15g vào bát, đậy nắp cho vào nồi hầm cách thủy chín nhừ, nêm đủ gia vị mang ra ăn hết trong ngày. Mỗi ngày ăn 1 lần. Cần ăn 10-15 ngày liền.

Bs. Hoàng Xuân Đại

Ốm nghén rất thường gặp trong giai đoạn đầu mang thai, khiến các mẹ bầu rất khổ sở.

Chị em thấy sợ cơm, ăn vào nôn mửa, thèm chua muốn uống nước, mệt mỏi muốn nằm. Nôn ói kéo dài ăn kém có thể mất nước giảm cân làm thiếu dinh dưỡng, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe.

Theo Đông y, phần nhiều do vị hư can khí nghịch lên ngoài ra còn do ngoại tà. Phép trị chủ yếu kiện tỳ vị, dưỡng can huyết. Dưới đây là 3 bài cổ phương gia giảm giúp thai phụ hết ốm nghén, tăng cường sức khỏe.

1. Có thai ốm nghén do vị hư can khí nghịch: ba tháng đầu thai nghén, chị em mệt mỏi, ăn vào ói mửa không muốn ăn, dùng bài Thuận can ích khí thang gia giảm: đảng sâm 14g, bạch truật sao 12g, phục linh 12g, thục địa 20g, đương quy 16g, bạch thược sao 12g, mạch môn bỏ lõi 12g, trần bì 12g, thần khúc 6g, sa nhân 6g, tô tử sao 8g. Sắc uống 3-5 thang, bệnh nặng dùng nhiều hơn.

3 bài thuốc chữa ốm nghénSa nhân là vị thuốc trong bài Kiện tỳ tư sinh hoàn trị có thai ốm nghén do khí hư dọa sẩy thai.

Tác dụng: Kiện tỳ vị, dưỡng can huyết giáng nghịch, hòa tỳ vị..., giúp thai phụ bớt mệt mỏi, ợ hơi, ợ chua khó thở, tiểu khó, tiểu són, thai chậm phát triển, thuốc “lành” dễ uống.

Gia giảm: Nếu động thai xuống huyết gia tục đoạn, sơn thù, hoàng cầm; nếu lạnh nhiều thay hoàng cầm bằng ngải diệp; nếu can uất tức, ngực sườn tức gia sài hồ. Nếu tỳ hư đi cầu lỏng gia hoài sơn, liên nhục, bạch biển đậu. Nếu có ngoại cảm gia tô diệp, thông bạch.

Kiêng kỵ: chứng nôn ói do ngoại tà, người sợ lạnh, phát sốt. Chứng âm hư tiểu ít, tiểu dắt.

2. Có thai ốm nghén do khí hư dọa sẩy thai: chị em thần sắc kém hay mệt, bụng đầy, nôn ói, dùng bài Kiện tỳ tư sinh hoàn: nhân sâm 12g, bạch truật 12g, phục linh 14g, bạch biển đậu 16g, hoài sơn 16g, liên nhục 14g, cát cánh 8g, trần bì 8g, sa nhân 4g, hoàng liên 6g, hoắc hương 12g, khiếm thực 14g, mạch nha 8g, sơn tra 12g, chích thảo 6g, ý dĩ nhân 12g. Sắc hoặc tán bột làm hoàn uống rất tốt.

Tác dụng: Ích khí, kiện tỳ, hóa trệ, cố thai... Bài thuốc giúp bổ tỳ vị hư bớt mệt mỏi ăn ngon, tăng cường kháng thể. Trị có thai 3 tháng khí huyết kém không nuôi dưỡng dọa sẩy thai.

Gia giảm: Nếu vị nhiệt nóng nhiều gia hoàng cầm, sinh địa. Nếu can uất gia sài hồ. Nếu tỳ hư hàn gia ngải diệp. Nếu có ngoại cảm gia tô diệp, thông bạch. Nếu động thai người lạnh nhiều ra huyết gia a giao, ngải diệp. Nếu động thai người nóng gia củ gai, hoàng cầm.

Kiêng kỵ: Chứng nôn ói do tích trệ, bụng đầy đau nôn mửa xong dễ chịu thì không dùng bài này.

3. Có thai ốm nghén do vị hư đờm ẩm: Nếu biểu hiện sắc mặt nhợt, nôn ra nhiều đờm dãi, dùng bài Bảo sinh thang: nhân sâm 12g, bạch truật 12g, trần bì 12g, hương phụ 10g, ô dược 12g, chích thảo 6g, sinh khương 12g. Sắc uống ấm.

Tác dụng: Bổ khí kiện tỳ, hóa trệ hòa vị... Trị có thai bị nôn mửa, ăn ngủ kém, bài còn dùng chữa các chứng liên quan đến tỳ vị hư đau bụng, tiêu chảy.

Gia giảm: Nếu can uất miệng đắng ợ chua gia hoàng cầm, bạch thược, phục linh. Nếu can huyết hư gia đương quy, bạch thược sao. Tỳ hư ăn kém gia liên nhục, hoài sơn.

Kiêng kỵ: Chứng âm hư nội nhiệt miệng khô khát, nôn khan, có thai người gầy nóng thì không dùng bài này.

Lưu ý: Ngoài ra, chị em cần ăn uống làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, tinh thần thoải mái tránh stress.

BS. Trúc Nguyên

Mẹo giúp tóc mọc nhanh, dày mượt với quả vải

Mặt nạ quả vải kích thích tóc mọc nhanhMặt nạ quả vải kích thích tóc mọc nhanh

Do hậu quả của stress và ô nhiễm môi trường, tóc bạn có thể bị yếu, gãy rụng. Mẹo nhỏ sau sẽ giúp tóc mọc nhanh và dày hơn.

Mẹo giúp tóc mọc nhanh nhờ vải

Thành phần:

7-8 quả vải, ép lấy nước2 thìa nhỏ lô hội (lô hội bỏ vỏ, lấy phần ruột trong)

Vải giàu đồng, sắt, vitamin C nuôi dưỡng nang tóc chắc khỏe

Vải giàu đồng, sắt, vitamin C nuôi dưỡng nang tóc chắc khỏe

Cách làm:

Trộn nước ép vải và lô hội trong bát.Bôi hỗn hợp lên da đầu và nhẹ nhàng massageỦ trong vòng 60 phút, sau đó gội lại nhẹ nhàng bằng dầu gội.

Bí quyết:

Khi mọc tóc, các nang tóc cần phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Vải có chứa đồng peptide làm chắc khỏe nang tóc, giảm gãy rụng tóc. Vải rất giàu đồng, nên thúc đẩy nang tóc và giúp tóc mọc nhanh, dày mượt.

Mẹo giúp tóc óng ả với vải

Do thời tiết khắc nghiệt, lúc mưa rào, lúc nắng gắt, tóc của bạn trở nên xơ xác, mất đi vẻ mượt mà óng ả. Mẹo nhỏ sau hô biến quả vải thành giàu xả cho tóc sẽ trả lại suối tóc hằng mơ cho bạn.

Thành phần:

8-10 quả vải, bỏ vỏ và hột, tách lấy cùi.

Cách làm:

Nghiền nhỏ cùi vải và bôi lên tóc.Dấp nước từ từ lên tóc và gội nhẹ nhàng trong vòng 15 phút. Tóc bạn sẽ trở nên đẹp và bóng mượt.

Bí quyết:

Vải rất giàu vitamin C nên giúp tóc mượt mà hơn. Đồng và sắt vốn sẵn có trong quả vải cũng giúp tóc đen, không bị bạc.

LiLy

(theo Style Craze)

Công dụng tuyệt vời từ khoai lang

Những nghiên cứu khoa học cho thấy khoai lang không chỉ có giá trị dinh dưỡng cao mà còn có những công dụng phòng chữa bệnh và là một trong những thực phẩm tạo miễn dịch tốt cho cơ thể.

Khoai lang, được gọi là sweet potatoes (tên khoa học: Ipomoea batatas).Trong hệ thống phân loại, khoai lang có “họ hàng” với khoai tây, cả hai cùng có nguồn gốc từ Nam Mỹ.

Những công dụng

Khoai lang chứa loại protein độc đáo có hiệu quả chống oxy hóa:

Khoai lang chứa loại protein độc đáo có khả năng chống oxy hóa (antioxidant) đáng kể. Nghiên cứu cho thấy các protein có khoảng 1/3 hoạt tính chống oxy hóa của glutathione - một trong những sản phẩm quan trọng của cơ thể có vai trò trong việc tạo các chất chống oxy hóa trong cơ thể. Mặc dù còn cần nhiều nghiên cứu trong tương lai nhưng những protein này đã giúp giải thích về những đặc tính chữa bệnh của khoai lang.

Khoai lang là một chất liệu dinh dưỡng có giá trị:

Hệ thống xếp hạng thực phẩm cho thấy khoai lang là loại thực phẩm truyền thống giàu chất dinh dưỡng. Củ khoai lang như là một nguồn vitamin A (dưới dạng beta-caroten) tuyệt vời, một nguồn vitamin C và mangan đáng kể. Trong khoai lang còn có sản phẩm đồng, chất xơ rất tốt cho cơ thể, lượng cao vitamin B6, kali và sắt.

Giàu chất chống oxy hóa:

Với lượng đáng kể vitamin A (dưới dạng beta-caroten) và vitamin C, khiến khoai lang là thực phẩm chống viêm nhiễm có tác dụng phòng và chữa trị bệnh. Cả hai dạng beta-caroten và vitamin C có tiềm năng chống oxy hóa lớn giúp hiệu quả cho cơ thể loại bỏ các gốc tự do. Thành phần các gốc tự do có hóa chất gây thiệt hại cho các tế bào và màng tế bào và chúng kết hợp với sự phát triển của các điều kiện như vữa xơ động mạch, bệnh đái tháo đường,bệnh tim, ung thư ruột. Ðiều này có thể giải thích tại sao cả beta-caroten và vitamin C giúp ích hiệu quả để ngăn ngừa các gốc tự do.

Hoạt chất có trong khoai lang trắng có thể trị bệnh đái tháo đường

Hoạt chất có trong khoai lang trắng có thể trị bệnh đái tháo đường

Từ những chất dinh dưỡng chống viêm, khoai lang có thể hữu ích trong việc giảm những khả năng phát sinh những bệnh viêm nhiễm, ví dụ như bệnh suyễn, viêm khớp, và viêm đa khớp dạng thấp. Ngoài ra, khoai lang là một nguồn vitamin B6 cần thiết để chuyển đổi homocysteine, một sản phẩm trong tiến trình “methylation”tạo ra acid amin quan trọng trong các tế bào thành các phân tử không gây hại. Khi homocysteine cao có liên quan làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ.

Hoạt chất có trong khoai lang trắng có thể trị bệnh đái tháo đường:

Tất cả các giống đều cho củ có vị ngọt, dù nhiều hay ít. Mặc dù có vị ngọt, nhưng khoai lang trên thực tế là thức ăn tốt cho những người bệnh đái tháo đường, các nghiên cứu cho thấy nó hỗ trợ cho sự ổn định nồng độ đường trong máu và làm giảm sức kháng insulin. Khoai lang trắng thường mọc ở vùng đồi núi. Chiết xuất thành phần Caiapo từ củ khoai lang trắng có thể kiểm soát tốt lượng đường máu và cholesterol trong bệnh đái tháo đường týp 2. Chất này đã được Nhật Bản điều chế thành dược phẩm bổ sung dành cho bệnh nhân đái tháo đường. Nghiên cứu tại Đại học Vienna (Áo), đã tìm hiểu phương thức hoạt động và tính hiệu quả của Caiapo từ khoai lang thử nghiệm trên những người mắc bệnh đái tháo đường týp 2 với liều dùng trong vòng 12 tuần. Kết quả cho thấy, khi điều trị bằng Caiapo chiết từ khoai lang đã làm giảm lượng hemoglobin A-1c (HbA1c) là yếu tố chỉ định lượng đường máu dư thừa. Lượng đường máu ở nhóm sử dụng Caiapo từ khoai lang cũng giảm hơn nhiều. Ngoài ra, lượng cholesterol trong máu cũng giảm. Các kết quả trên chứng tỏ Caiapo chiết xuất từ khoai lang là chất kiểm soát bệnh đái tháo đường týp 2 rất hiệu quả mà không gây ra một phản ứng phụ cho người bệnh.

Bài thuốc từ khoai lang

Chữa cảm sốt mùa nóng: thời tiết nóng dễ gây sốt vì cảm, không ra được mồ hôi. Với người sức khỏe tốt, có thể nấu khoai lang trắng với cải bẹ xanh ăn thay cơm để giúp ra mồ hôi, hạ sốt, giải cảm. Có thể dùng các bài thuốc:

- Khoai lang trắng khô một nắm, nghệ một củ, dấm 1/2 chén con, sắc uống nóng.

- Khoai lang trắng khô 16g, gừng 16g, sắc uống hoặc nấu cháo.

- Khoai lang trắng tươi luộc chín để xông, rồi ăn khoai nóng, uống nước luộc khoai nóng cho ra mồ hôi.

- Khoai lang 1 củ (400g), gạo 200g, đậu xanh 1/2 bát cơm, mã thầy 4 củ, củ cải 1 củ, tỏi 3 nhánh, thịt gà 150g, tôm nõn 70g, gia vị. Tất cả giã nát hoặc thái nhỏ nấu nhừ, riêng đậu xanh và mã thầy cho vào sau rồi nấu nhừ tiếp.

Chữa táo bón: ăn khoai luộc đơn thuần hoặc chấm mật, chấm vừng; ăn với cà pháo cả quả hoặc thái chỉ cà, nghiền cùng khoai thành khối. Các cách khác:

- Uống nước luộc khoai (khoai phải rửa sạch).

- Nấu chè khoai tươi hoặc khô với vừng và ít hoa quế.

- Dùng nước cốt luộc khoai tươi hay khô đã giã nát, nếu bị trĩ thì uống hàng tháng nước cất này vào buổi sáng.

Chữa quáng gà: lá khoai lang non xào gan gà hoặc gan lợn.

Thiếu sữa: lá khoai lang tươi non 250g, thịt lợn 200g thái chỉ. Xào chín mềm, thêm gia vị.

Viêm tuyến vú: khoai lang trắng gọt vỏ, giã nhuyễn đắp lên vú, có thể phối hợp với tỏi giã nhuyễn để đắp.

Thận âm hư, đau lưng mỏi gối: lá khoai lang tươi non 30g, mai rùa 30g, sắc kỹ lấy nước uống.

Thận dương hư, đi tiểu nhiều lần: hầm thịt chó với khoai lang, cho thêm chút rượu và gia vị.

Chữa ngộ độc sắn: khoai lang gọt vỏ giã nát thêm nước, vắt lấy nước cốt. Uống cách nhau 1/2 giờ.

Say tàu xe: củ khoai lang tươi nhai nuốt cả nước và bã.

Phụ nữ băng huyết: rau lang tươi một nắm giã nát, lấy nước cốt uống.

Vàng da: nấu cháo đặc bằng khoai với gạo hoặc bột ngô.

Tránh để khoai lang lâu ngày mới ăn vì mặc dù tăng độ ngọt nhưng đồng nghĩa là tăng lượng đường, không có tác dụng chữa đái tháo đường và dễ tăng cân.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

Món ăn ôn ấm tỳ vị

chúng tôi xin được giới thiệu một số món ăn bài thuốc có công dụng bồi bổ ngũ tạng, ôn ấm tỳ vị, bổ dưỡng nguyên khí... thích hợp sử dụng trong mùa đông để độc giả tham khảo.

Bài 1: ngân nhĩ 20g, kỷ tử 30g, hai thứ hầm mềm thêm chút đường phèn, ăn nóng. Có tác dụng: bồi bổ can thận, hoạt huyết thông khí, dưỡng âm sinh tân, đặc biệt thích hợp với những người mắc các bệnh đường hô hấp, da khô nứt nẻ.

Bài 2:gà trống 1 con, gừng tươi, rượu trắng, gia vị vừa đủ, hầm nhừ. Tác dụng: tráng dương, bồi bổ ngũ tạng, rất thích hợp với những người có thể chất dương hư.

Bài 3: chim bồ câu 1 con, ba kích 20g, hoài sơn 15g, kỷ tử 20g, gia vị vừa đủ, nước sâm sấp, tất cả cho vào nồi hầm nhừ, mỗi tuần ăn 1-2 lần. Tác dụng: bổ thận tráng dương, ôn ấm tỳ vị (những người có thể chất nóng trong không nên dùng).

Bài 4:dâm dương hoắc 200g, tiên mao 80g, nhục thung dung 80g, đương quy 160g, hoàng bá 40g, tri mẫu 40g. Đem tất cả các vị ngâm với 500ml rượu, nấu khoảng một giờ rồi chôn xuống đất 3 ngày 3 đêm, để tiếp 7 ngày nữa thì vớt thuốc ra, phơi khô nghiền thành bột, hoàn viên hoàn bằng hạt đạu đen, rượu và thuốc uống cùng lúc, mỗi ngày 5-10 viên. Công dụng: bổ thận sinh tinh, trợ dương bổ âm.

ThS.BS. Phan Thị Thu Hiền

Bài thuốc cổ phương trị thiểu năng tuần hoàn não

Thiểu năng tuần hoàn não là một bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi, có nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau: nhức đầu, chóng mặt, rối loạn về giấc ngủ... nhưng có cùng chung một cơ chế bệnh sinh là thiếu máu nuôi não.

Nguyên nhân chính là do vữa xơ động mạch, nghĩa là thành động mạch có lắng đọng mảng vữa, gồm chủ yếu chất mỡ và tổ chức xơ... Bên cạnh các thuốc điều trị của YHHĐ, YHCT cũng có nhiều hiệu quả trong điều trị thiểu năng tuần hoàn não.

Trong Y học cổ truyền, bệnh này nằm trong phạm vi các chứng đầu thống, huyễn vựng, thất miên... Theo YHCT, cơ chế bệnh sinh do nhiều nguyên nhân: tuổi cao làm chức năng của tạng phủ bị suy giảm, do chế độ ăn uống và sinh hoạt không hợp lý, ăn nhiều thức ăn béo, dầu mỡ… hay ăn uống thiếu thốn kéo dài... đều làm ảnh hưởng đến chức năng của các tạng phủ, làm khí huyết hư sinh ra các chứng đầu thống, huyễn vựng, thất miên… Bài viết này sẽ cung cấp cho bạn đọc một số kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT trong điều trị thiểu năng tuần hoàn não.

Thể tỳ hư đàm thấp

Triệu chứng: Chóng mặt, nhất là khi thay đổi tư thế, đầu luôn có cảm giác căng nặng, ngực bụng đầy tức, ăn có cảm giác dễ buồn nôn, người mệt mỏi, nặng nề. Chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch trầm hoạt hoặc nhu hoạt.

Phương pháp điều trị: kiện tỳ, hóa đàm, hoà vị.

Bài thuốc cổ phương: Bán hạ bạch truật thiên ma thang: phục linh 16g, trần bì 8g, bán hạ chế 10g, cam thảo 6g, bạch truật 16g, thiên ma 16g, sinh khương 3 lát, đại táo 4 quả, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Thể khí huyết lưỡng hư

Triệu chứng: Người bệnh thường chóng mặt, hoa mắt, váng đầu hay hồi hộp, mất ngủ, người mệt mỏi, ăn kém, bụng đầy tức, khi lao lực thì các triệu chứng này lại nặng lên. Chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược.

Phương pháp điều trị: bổ dưỡng khí huyết, kiện tỳ.

Bài thuốc cổ phương: Qui tỳ thang: đẳng sâm 16g, hoàng kỳ 16g, đương qui 16g, bạch truật 16g, phục thần 12g, liên nhục 16g, viễn trí 6g, táo nhân 12g, long nhãn 12g, bắc mộc hương 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Để điều trị thiểu năng tuần hoàn não, YHCT cũng có thể phối hợp thuốc sắc với châm cứu, xoa bóp bấm huyệt và luyện tập khí công - dưỡng sinh để tăng cường hiệu quả điều trị.

TS.BS. Trần Thái Hà (Trưởng khoa Lão - Bệnh viện YHCT TW)

Dược thiện chữa bệnh gút

Bệnh do phong, hàn và thấp làm ảnh hưởng đến công năng của Can, Thận và Tỳ gây khí trệ huyết ứ và đàm trọc ách trở sinh bệnh. Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh theo các thể:

Thể phong thấp nhiệt: Người bệnh đau khớp đột ngột, thường vào lúc nửa đêm, có khi phát sốt. Tại chỗ khớp: sưng nóng đỏ đau, cự án; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch huyền sác. Phép chữa: Thanh nhiệt trừ thấp, tiết trọc thông lạc. Dùng bài Thanh trọc thống tý thang: nhẫn đông đằng (dây leo của cây kim ngân) 30g, hoàng bá 15g, ý dĩ 24g, thổ phục linh 24g, huyền sâm 16g, đương quy 12g, một dược 10g, ngưu tất 12g, phòng kỷ 12g, tần giao 12g, thất diệp 24g. Sắc uống

Cây kim ngân là vị thuốc trong bài “Thanh trọc thống tí thang” trị bệnh gút thể phong thấp nhiệt.

Cây kim ngân là vị thuốc trong bài “Thanh trọc thống tí thang” trị bệnh gút thể phong thấp nhiệt.

Thể khí trệ trọc ứ: Khớp sưng đau không đi lại được hay tái phát, bệnh kéo dài dai dẳng, người mệt mỏi, ngực sườn đầy tức, để lâu ngày khớp xương xơ cứng biến dạng, lưỡi ám tối, rêu lưỡi trắng dày; mạch huyền hoạt sác. Phép chữa là hành khí hoạt huyết, thông lạc trừ ứ. Dùng bài Trừ ứ thông lạc thang: hoàng kỳ 30g, thương truật 15g, ý dĩ 24g, tỳ giải 24g, mao đông thanh 24g, xuyên sơn giáp 10g, đương quy 12g, ngưu tất 15g, xích thược 15g, uy linh tiên 15g, trần bì 6g, xuyên khung 8g. Sắc uống.

Thể tỳ hư trọc ứ: Khớp đau ê ẩm, cử động không linh hoạt, tay chân tê bì, nổi u cục, người mệt mỏi, vô lực; tâm quý, khí đoản, buồn nôn; chất lưỡi hồng nhạt có dấu răng; rêu lưỡi trắng nhạt; mạch trầm hoãn tế sáp. Phép chữa là kiện tỳ tiết trọc, trừ ứ thông lạc. dùng bài Phòng kỷ hoàng kỳ thang gia vị: Hoàng kỳ 24g, phòng kỷ 12g, bạch truật 12g, ý dĩ 24g, cam thảo 6g, tỳ giải 24g, thổ phục 24g, tàm sa 12g, xích thược 12g. Sắc uống.

Thể thận hư trọc ứ: Bệnh kéo dài lâu ngày dai dẳng, khớp biến dạng nổi u cục, có biến chứng tại thận (viêm thận, sỏi thận), đau đầu huyễn vựng, tiểu tiện ít, tâm quý, phù thũng; lưỡi đỏ, rêu ít; mạch trầm huyền sáp. Phép chữa là bổ thận tiết trọc, trừ ứ thông lạc.

Bài 1 - Lục vị địa hoàng hoàn gia vị: thục địa 24g, sơn dược 12g, phục linh 15g, sơn thù 12g, trạch tả 10g, đan bì 10g, ích mẫu thảo 24g, xa tiền thảo 24g, đỗ trọng 12g, hoàng kỳ 24g. Sắc uống.

Bài 2 - Đào hồng tứ vật gia giảm: sinh địa 24g, xích thược 12g, đương quy 12g, xuyên khung 8g, đào nhân 12g, hồng hoa 12g.

TS. Nguyễn Đức Quang

Cơ phương và ngẫu phương trong kê đơn

Y học cổ truyền là một hệ thống chăm sóc sức khỏe con người theo triết lý văn hóa phương Đông. Nền tảng lý luận không ngoài lý luận phương đông (kinh dịch, âm dương, ngũ hành…).Điểm đặc sắc của y học cổ truyền bên cạnh các phương pháp điều trị không dùng thuốc là kho tàng dược liệu và hệ thống dược lý phong phú, đặc trưng của nền y dược học phương Đông là thuốc thang hay thuốc sắc (các vị thuốc được phối hợp thành thang cho vào nước, sắc thành một dung dịch để uống chữa bệnh).

Điều trị y học cổ truyền không ngoài cân bằng âm dương khí huyết, khi mất cân bằng thì biểu hiện bệnh muôn hình vạn trạng thịnh suy, xa gần, trong ngoài khác nhau. Tùy theo tiến triển của bệnh mà thầy thuốc gia giảm theo cổ phương hoặc đối chứng lập phương khiến việc điều trị trở thành nghệ thuật tinh tế và đặc sắc Á Đông. Việc kê đơn cũng cần tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản và quá trình chuẩn mực đi theo thứ tự lý luận, lập pháp, xử phương và dụng dược. Dựa theo số lượng thuốc muốn dùng trong bài thuốc có thể chia ra 7 loại phương thuốc: đại phương, tiểu phương, hoãn phương, cấp phương, cơ phương, ngẫu phương và phức phương; điều thú vị của xử phương là số dược liệu trong thang thuốc thể hiện tinh hoa triết học phương Đông trong điều trị của người xưa. Đây không phải là sự ngẫu nhiên, mà là sự sắp xếp theo kinh nghiệm điều trị qua các thế hệ và hiệu chỉnh theo triết lý phương đông là cơ và ngẫu.

Cơ phương và ngẫu phương trong kê đơn

Theo kinh dịch cơ là lẽ, biểu hiện của dương; ngẫu là chẵn, biểu hiện của âm. Có thể hiểu số lượng dược dùng trong thang thuốc có chẵn lẻ khác nhau tập trung chủ yếu vào số lượng vị thuốc làm quân và thần. Hoàng đế nội kinh - Tố vấn - Chí chân yếu đại luận ghi nhận: “Về đại yếu, quân một thần ba, là phép của cơ phương; quân hai thần bốn, là phép của ngẫu phương; quân hai thần ba, là phép của cơ phương; quân hai thần sáu, là phép của ngẫu phương”. Như vậy, tổng số lượng vị thuốc của quân và thần nếu là lẽ thì phương thang thuộc nhóm cơ phương, nếu là chẵn thuộc nhóm ngẫu phương. Việc xác lập cơ ngẫu làm nền tảng phân nhóm điều trị.

Điều trị y học cổ truyền không ngoài cân bằng âm dương khí huyết, khi mất cân bằng thì biểu hiện bệnh muôn hình vạn trạng

“Trị bệnh gần thời dùng cơ phương, trị bệnh xa thời dùng ngẫu phương. Muốn hãn, không nên dùng cơ. Muốn hạ, không nên dùng ngẫu”. Trong bát cương, âm dương có thể phân tương đối như sau: phần nổi trội, nhanh, cấp, phần trên thuộc dương; phần chậm, hoãn, phần dưới thuộc âm. Bệnh gần là lúc tà khí - chính khí còn tranh đấu, dùng cơ phương trợ chính khí, nhanh chóng giải quyết bệnh sẽ khỏi. Bệnh xa lúc này đã có tổn hại nhất định trong cơ thể, dùng ngẫu phương hỗ trợ chính khí. Phát hãn dùng tính dược của thuốc giải tà khí ra ngoài bằng mồ hôi, nếu tính gấp sẽ khó kiểm soát và dễ hao tổn tân dịch, do đó không nên dùng cấp phương hay cơ phương là vì vậy. Khi dùng thuốc tân ôn giải biểu, cần phát hãn thì không dùng cơ phương như bài Ma hoàng thang (quân ma hoàng, thần quế chi, tức là dùng ngẫu phương), Quế chi thang (quân quế chi, thần bạch thược là dùng ngẫu phương) phù hợp với quy luật trên. Ngược lại, tả hạ là phương pháp công tà, trị phải nhanh nếu dùng lâu cơ thể dễ suy kiệt, do đó không nên dùng hoãn phương hay ngẫu phương. Như khi dùng thuốc tả hạ bài Đại hoàng phụ tử thang (quân phụ tử, đại hoàng, thần tế tân là cơ phương), Hoàng long thang (quân đại hoàng, thần mang tiêu, đương quy là cơ phương) phù hợp với quy luật tả hạ không dùng ngẫu.

Ngoài ra, khi bệnh cấp dùng cơ phương, nếu không khỏi thì kết hợp ngẫu phương vừa công vừa bổ, tức cơ ngẫu đều dùng, còn gọi là phức phương. “Cơ chi bất khứ tắc ngẫu chi. Thị vị trùng phương” (Chí chân yếu đại luận). Như vậy, tùy tình hình bệnh biến chuyển, người thầy thuốc sẽ thay đổi linh hoạt tùy chứng mà có phương thang phù hợp, không cứng nhắc một phương pháp,nhận định hoãn cấp đúng lúc, nặng nhẹ khác nhau chính yếu vừa đúng đến bệnh là tốt.

Việc nghiên cứu vị thuốc, phương thang theo y học cổ truyền không chỉ là quá trình tìm hiểu tác dụng đơn lẻ từng vị thuốc hay một đặc tính hữu hiệu hiện đại; mà còn là quá trình tìm hiểu về văn hóa phương Đông và nghệ thuật sắp đặt - dụng ý của các bậc danh y đã lưu truyền phương thuốc đó.

TS.BS. VÕ TRỌNG TU N, HẠ CHÍ LỘC